Tuyển dụng cộng tác viên pháp lý

EPLegal đang tìm kiếm các ứng viên xuất sắc để tham gia nhóm chuyên môn của chúng tôi với tư cách là Cộng tác viên pháp lý với các mối quan tâm chính trong: Dự án và năng lượng, Giải quyết tranh chấp, Trọng tài.

Nhiệm vụ và trách nhiệm chính:

• Chuẩn bị các văn bản pháp lý

• Thu thập và phân tích các tài liệu nền tảng chuyên nghiệp

• Soạn thảo nhiều loại văn bản pháp lý khác nhau bao gồm hợp đồng, bản ghi nhớ và ý kiến ​​pháp lý

• Giữ liên lạc với khách hàng, đối tác và các cơ quan chính phủ

• Hành chính pháp lý khác

Nền tảng chuyên môn và kỹ năng cần thiết:

• Tốt nghiệp đại học luật trở lên với kết quả học tập xuất sắc;

• Bằng LLM và / hoặc chứng chỉ luật sư;

• Thực hành vững vàng với nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực trọng tài;

• 3 – 5 năm kinh nghiệm trong Công ty Luật;

• Nói và viết thành thạo tiếng Việt và tiếng Anh;

• Thực hành tốt dịch vụ khách hàng và cố vấn cho các quốc tịch khác nhau của khách hàng;

• Tư duy logic và kỹ năng phân tích pháp lý;

• Thái độ và ngoại hình chuyên nghiệp, linh hoạt

Những gì chúng tôi cung cấp:

• Môi trường quốc tế đầy thách thức, nơi khuyến khích phát triển và tăng trưởng cá nhân

• Cơ hội làm việc với các khách hàng có cấu hình cao trong các giao dịch có cấu hình cao

• Mức lương cạnh tranh, bao gồm các quyền lợi bằng hiện vật.

Làm sao để đăng kí?

Nếu bạn quan tâm đến việc ứng tuyển vào vị trí trên, vui lòng gửi CV đến Giám đốc Nhân sự của chúng tôi (Ms. Vân) fna@eplegal.com

Vị trí:

Thành phố Đà Nẵng

Posted in Chưa phân loại

GÓC NHÌN THỰC TẾ VỀ ÁP DỤNG CISG TẠI VIỆT NAM TRONG 4 NĂM QUA – SỰ NGẠI THAY ĐỔI HAY GÁNH NẶNG “NHỚ NHÀ”?

Nguyễn Trung Nam (Tony) – Luật sư sáng lập EPLegal

(Phần 2: Kết quả áp dụng CISG tại Việt Nam trong 4 năm qua) 

Bài viết này tập trung vào vấn đề áp dụng CISG tại Việt Nam, cụ thể là Điều 1, Điều 6, Điều 7 và Điều 8 của công ước. Các vấn đề không được quy định bởi CISG, hoặc chỉ được đề cập nhưng chưa được giải quyết cũng sẽ được làm rõ. 

Áp dụng CISG đúng cách 

Ngoại trừ một số khúc mắc liên quan đến khai niệm “địa điểm kinh doanh”, Điều 1.1(a) về cơ bản không gây tranh cãi. Tuy nhiên, Điều 1.1(b) lại là một chủ để được các chuyên gia trên toàn thế giới thảo luận. Ví dụ, hợp đồng quy định rằng luật áp dụng là luật của một quốc gia thành viên CISG và quốc gia đó không dựa vào Điều 95 để loại bỏ Điều 1.1(b). Trong trường hợp này, câu hỏi đặt ra là liệu luật của nước thành viên đó hay CISG sẽ được áp dụng. 

Trước đây, có nhiều ý kiến cho rằng lựa chọn luật quốc gia làm luật áp dụng đồng nghĩa với việc loại trừ CISG.[1] Quan điểm này gặp phải nhiều chỉ trích và đã không còn đúng. Ngược lại, phần lớn những án lệ của các nước thành viên CISG như Pháp, Mỹ, Trung Quốc đều đồng tình với cách áp dụng là nếu các bên trong hợp đồng muốn loại trừ CISG, các bên phải thể hiện điều đó ra một cách rõ ràng. Nếu các bên không quy định rõ về loại trừ CISG, việc thỏa thuận áp dụng pháp luật một nước thành viên đồng nghĩa với việc CISG sẽ là luật được áp dụng. Đây cũng đồng thời là quan điểm chính thống của UNCITRAL.[2] Theo ý kiến của Hội đồng cố vấn CISG, ngay cả khi một hoặc các bên tham gia tranh chấp không căn cứ trên CISG mà áp dụng các quy định luật quốc gia để nộp khiếu kiện, cơ quan giải quyết tranh chấp cũng không thể từ riêng lý do đó để suy ra các bên ngầm định loại trừ CISG.[3] 

Đối với Điều 7.1 of CISG, khi cơ quan xét xử áp dụng và giải thích CISG, họ cần xem xét đến tính chất quốc tế của nó cũng như sự cần thiết phải thúc đẩy việc áp dụng CISG một cách thống nhất và bảo đảm nguyên tắc thiện chí trong thương mại quốc tế. Trong quãng thời gian dài và cho đến tận bây giờ, nguyên tắc thiện chí vẫn là một khái niệm gây tranh cãi. Các chuyên gia và học giả thuộc khối Thông luật luôn phản đối việc sử dụng nguyên tắc thiện chí trong luật pháp nội địa của các nước theo truyền thống dân luật. họ cho rằng giới hạn về yêu cầu thiện chí trong Điều 7.1 CISG chỉ đơn giản là một trạng thái tinh thần trong khi diễn giải, giải thích CISG.[4] Tuy nhiên, không nên đồng ý theo cách hiểu này của các nước trong khối Thông luật. Trong mọi trường hợp, nguyên tắc thiện chí phải được hiểu theo nghĩa quốc tế, chứ không được áp đặt bất kỳ cách hiểu của quốc gia nào.[5]

Tiếp theo là nguyên tắc lấp chỗ trống theo Điều 7.2 của CISG. Điều 7.2 tạo ra cơ chế 2 tầng để giải quyết những vấn đề mà CISG không đề cập, hoặc có đề cập nhưng không xử lý. 

Ở tầng 1, các nguyên tắc chung làm nền tảng của Công ước được sử dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý đang có lỗ hổng. Các nguyên tắc đó bao gồm: 

– Nguyên tắc tự do thỏa thuận (Quy định tại Điều 6 CISG) 

– Nguyên tắc thiện chí trong giải thích Công ước (Điều 7.1 CISG) 

– Nguyên tắc về nơi thanh toán tiền, là địa điểm kinh doanh của bên bán (Điều 57 CISG) 

– Nguyên tắc về ganh nặng chứng minh thuộc về bên yêu cầu được hưởng lợi từ một điều khoản của CISG, hoặc mong muốn được miễn trừ một trách nhiệm nào đó. 

– Nguyên tắc bồi thường toan bộ khi có vi phạm. 

– Nguyên tắc không xem trọng hình thức (Điều 11 CISG) 

– Nguyên tắc về trao đổi thông tin liên lạc (Điều 27 CISG) 

– Nguyên tắc hạn chế tổn thất (Điều 77 CISG) 

– Nguyên tắc áp dụng thói quen thương mại giữa các bên (Điều 9.2 CISG) 

– Nguyên tắc quyền tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán của bên mua khi bên bán vi phạm nghĩa vụ. 

– Quyền tính lãi chậm trả (Điều 78 CISG) 

– Nguyên tắc thiên vị hợp đồng “Favor contractus” thể hiện qua Điều 19.2, 25, 26, 34, 48, 49, 51.1 và Điều 64 CISG 

– Nguyên tắc tin cậy “Reliance” trong Điều 8 CISG. Theo nguyên tắc này một bên sẽ bị ràng buộc trách nhiệm nếu các tuyên bố và hành vi của nó thể hiện ý định chịu sự ràng buộc đó. 

– Nguyên tắc tiên lượng được một cách hợp lý (Điều 74 và Điều 79 CISG). 

Tại tầng 2, pháp luật áp dụng sẽ là luật pháp của một quốc gia. Một trong những vấn đề được đặt ra tại đây là làm sao để phân biệt giữa việc áp dụng các nguyên tắc chung nói trên, với việc áp dụng luật quốc gia. In fact, there are two common gaps of CISG. Thực tiễn xét xử thường chia các lỗ hổng của CISG ra làm hai loại: loại thứ nhất là lỗ hổng bên ngoài (external gap) nói về các vấn đề mà CISG có ghi nhận rõ ràng là không áp dụng hoặc không điều chỉnh (ví dụ, các vấn đề được liệt kê trong Điều 4 CISG). Trong trường hợp này, luật quốc gia sẽ đương nhiên được áp dụng để lấp vào chỗ khuyết của CISG. Loại thứ hai là lỗ hổng bên trong (internal gap) tức là các vấn đề mà CISG có điều chỉnh nhưng lại không có cách giải quyết rõ ràng. Các tốt nhất để xử lý lỗ hổng bên trong là áp dụng các nguyên tắc chung của CISG càng nhiều càng tốt, và hạn chế tối đa việc sử dụng tới luật nội địa của quốc gia.[6] 

Kết quả việc áp dụng CISG tại Việt Nam từ 01/01/2017 đến 30/11/2020 

Cho đến nay, không có số liệu về tổng số vụ kiện về mua bán hàng hóa quốc tế được xét xử tại Tòa án. Theo thông tin không chính thức tại tòa án nhân dân ba tỉnh/thành phố chính có nhiều hoạt động thương mại là Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng thì cho đến nay chưa có bất kỳ vụ kiện nào mà tòa án áp dụng CISG. 

Tại trọng tài, CISG đã được sử dụng để giải quyết tranh chấp trong 7 vụ kiện: 6 vụ tại VIAC và 1 vụ tại ICC. Đây chỉ là một con số rất nhỏ so với tổng cộng 86 vụ tranh chấp được giải quyết bởi các cơ quan trọng tài trong thời gian từ 01/01/2017 đến 30/11/2020. 

Sau đây là ba lý do cho việc áp dụng CISG còn rất hạn chế này tại Việt Nam: 

1) Hợp đồng được giao kết/xác lập trước khi CISG có hiệu lực tại Việt Nam 

Phần lớn những vụ kiện trong số tổng cộng 86 vụ đã đề cập ở trên được đưa ra giải quyết tại trọng tài trong năm 2017. Tuy nhiên các hợp đồng bị tranh chấp lại được ký trước ngày 01/01/2017. Vào thời điểm đó, CISG chưa có hiệu lực và không thể được áp dụng khi hợp đồng có quy định luật áp dụng là luật Việt Nam hoặc hợp đồng không có thỏa thuận về luật áp dụng. Do đó, việc CISG không được áp dụng trong các trường hợp này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn trọng tài quốc tế. 

2) Hợp đồng không quy định luật áp dụng 

Theo thông tin thu thập được từ VIAC, đến hết năm 2020, đã có 31 tranh chấp về thương mại quốc tế mà hợp đồng không quy định luật áp dụng. Đối với những vụ tranh chấp đó, Hội đồng trọng tài đã quyết định áp dụng luật Việt Nam. Tuy nhiên, cách giải quyết trên không phù hợp với quy định tại Điều 1.1(b) CISG, thực tiễn quốc tế cũng như các hướng dẫn của UNCITRAL. Lẽ ra, khi quyết định áp dụng luật Việt Nam, Hội đồng trọng tài phải đồng thời căn cứ vào điều 1.1(b) để áp dụng CISG cho việc xét xử vụ tranh chấp. 

3) Hợp đồng quy định luật áp dụng là luật Việt Nam 

Trong tổng số 86 vụ tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam, có tới 54 vụ mà hợp đồng có quy định luật Việt Nam là luật áp dụng. Trong các vụ việc này thì hầu hết các hội đồng trọng tài đã lựa chọn luật Việt Nam để xét xử và hoàn toan phớt lờ sự tồn tại của CISG trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đây là một biểu hiện của xu hướng “nhớ nhà” (hometrend), tức là hội đồng tài viên đã vô tinh hoặc cố ý hiểu nội dung CISG theo hướng loại trừ áp dụng CISG trong những trường hợp mà lẽ ra CISG phải được áp dụng theo Điều 1.1(b). 

Để tìm hiểu và giải thích lý do của cách hiểu sai lệch này, 14 trọng tài viên Việt Nam đã được phỏng vấn về chủ đề áp dụng CISG. Kết quả như sau: 

– 3 trọng tài viên đã từng xét xử vụ việc liên quan tới CISG. 

– 7 trọng tài viên có quan điểm thủ cựu, cho rằng kể cả khi Việt Nam đã là thành viên của CISG, thì nếu các bên thỏa thuận áp dụng luật Việt Nam thì vẫn sẽ ưu tiên áp dụng luật Việt Nam mà không áp dụng CISG, hoặc coi CISG là một nguồn luật phụ bổ sung. 

– Phần lớn các trọng tài viên đánh đồng các quy định của CISG với luật Việt Nam và cho rằng có thể áp dụng cái nào cũng được, đều cho kết quả như nhau. 

– Nhiều trọng tài viên đều cho rằng nếu các bên đã nộp khiếu kiện hoặc bản tự bảo vệ dựa trên luật Việt Nam, thì ngầm định là CISG bị loại trừ. Điều này trái với thực tiễn quốc tế cũng như ý kiến của Hội đồng cố vấn CISG ghi nhận ở phần 2 nêu trên. 

– Một trọng tài viên lý giải vì sao luật Việt Nam được ưu tiên áp dụng hơn CISG. Theo giải thích của trọng tài viên này, Việt Nam cũng đã đề cập đến Công ước viên nhưng chưa bao giờ áp dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ theo luật Việt Nam vì đây là nguồn luật họ biết và hiểu rõ hơn. 

Như vậy có thể kết luận là bản thân các bên tranh chấp đã có xu hướng không đưa ra đề xuất về việc áp dụng CISG trong quá trình tố tụng mà chỉ dựa vào luật Việt Nam, và hội đồng trọng tài cũng có xu hướng ngầm định các bên ưu tiên lựa chọn luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Vì sự “đồng thuận ngại đổi mới” này mà các bên thường dẫn tới kết quả cuối cùng là “về nhà” áp dụng luật Việt Nam thay vì CISG. 

Mở rộng xem xét ý kiến của 10 thẩm phán có hoạt động xét xử các vụ kiện thương mại, có tới 8/10 cho rằng luật Việt Nam phải được áp dụng nếu các bên thỏa thuận trong hợp đồng áp dụng luật Việt Nam. Đây cũng là lý do vì sao chưa tìm thấy một bản án nào của tòa án có áp dụng CISG. 


[1] Italy 14 January 1993 District Court Monza (Nuova Fucinati v. Fondmetall International) http://cisgw3.law.pace.edu/cases/930114i3.html and France 26 September 1995 Appellate Court Colmar (Ceramique Culinaire v. Musgrave). http://cisgw3.law.pace.edu/cases/950926f1.html
[2] UNCITRAL Digest of Case Law on the CISG (2016 Edition), page 34, para 11
[3] CISG Advisory Council (2014), Opinion no. 16: Exclusion of the CISG under Article 6, para 5.
[4] Bruno Zeller, ‘Good Faith – The Scarlet Pimpernel of the CISG (May 2000).
[5] Magnus, ‘Remarks on Good faith’ Int. Trade and Bus L Ann III (1997) 46
[6] UNCITRAL Digest (2016), page 43, para 10.  

Posted in Chưa phân loại

GÓC NHÌN THỰC TẾ VỀ ÁP DỤNG CISG TẠI VIỆT NAM TRONG 4 NĂM QUA – SỰ NGẠI THAY ĐỔI HAY GÁNH NẶNG “NHỚ NHÀ”?

Nguyễn Trung Nam (Tony) – Luật sư sáng lập EPLegal

(PHẦN 1: Hành trình Việt Nam gia nhập CISG)

Lịch sử ra đời và thành công của CISG

Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (“CISG“) được thông qua năm 1980. Kể từ đó, CISG đã đóng góp rất nhiều vào sự chắc chắn và sự hiệu quả về chi phí trong thương mại.[1] Cùng với Công ước New York 1958, CISG được nhiều người xem là một trong những công ước thành công nhất của UNCITRAL.

CISG được soạn thảo bởi một nhóm làm việc gồm các luật sư từ các khu vực khác nhau trên thế giới dưới sự bảotrợ của Ủy ban Thương mại Quốc tế Liên Hợp Quốc (“UNCITRAL“). Cho đến ngày 01/11/2020, 96 nước và vùng lãnh thổ đã thông qua CISG.[2] Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa các quốc gia này chiếm tới 3/4 tổng kim ngạch thương mại của toàn thế giới, chứng tỏ tính phổ cập tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của công ước đối với thương mạihàng hóa quốc tế.

Sự thành công của CISG có thể được giải thích bởi các yếu tố sau:

Thứ nhất, CISG là kết quả từ nỗ lực đàm phán qua hàng thập kỷ của các đại diện từ các quốc gia khác nhau. Kết quả của quá trình này là một công ước hiện đại phù hợp với các hệ thống pháp lý khác nhau trên thế giới và có khả năng cân bằng lợi ích giữa người bán và người mua.

Thứ hai, công ước áp dụng cho các hợp đồng thương mại giữa người mua và người bán có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia thành viên của CISG hoặc khi các quy tắc của luật pháp quốc tế tư nhân coi luật của một nước ký kết là luật có thể áp dụng. Mặc dù có phạm vi bao phủ rộng như vậy, công ước rất linh hoạt và cũng tôn trọng quyền tự do hợp đồng bằng cách cho phép các bên của hợp đồng loại trừ, thay đổi hoặc thay thế một hoặc gần như tất cả các điều khoản của CISG.[3]

Thứ ba, ngôn ngữ của CISG rất thực dụng và dễ dàng để bất kỳ ai cũng có thể đọc, hiểu và áp dụng.

Thứ tư, CISG đã được nhiều nước tham khảo để phát triển luật pháp nội địa. Trên thực tế, sự hiện diện của CISG có thể được nhận thấy trong luật thương mại của Pháp, Đức,[4] Thụy Sĩ, Trung Quốc[5] và Việt Nam.[6]

Cuối cùng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường ít được tiếp cận với dịch vụ pháp lý khi đàm phán hợp đồng. Do đó, họ thường là bên yếu thế hơn khi thực hiện công việc này và phải đối mặt với rủi ro cao hơn khi ký kết hợp đồng. Các doanh nghiệp như vậy sẽ hưởng lợi từ CISG với các điều khoản công bằng cho người mua và được ap dụng một cách mặc định cho hợp đồng mua bán của họ.

Hành trình gia nhập CISG của Việt Nam

Việt Nam bắt đầu nghiên cứu về CISG vào những năm 80. Tuy nhiên, chỉ tới năm 2010, những lợi ích và nhược điểm của việc tham gia CISG mới được nghiên cứu và xem xét một cách khoa học bởi một nhóm các chuyên gia về CISG. Các chuyên gia đã được tập hợp để tiến hành một nghiên cứu sâu rộng về CISG theo đề xuất của Hội đồng Tư vấn Chính sách Thương mại Quốc tế (“INTAC“) trực thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (“VCCI“). Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích lý do mà các quốc gia khác tham gia hoặc từ chối tham gia CISG, so sánh CISG và luật pháp Việt Nam có hiệu lực vào thời điểm đó, phân tích lợi ích mà CISG đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam, thu thập ý kiến của các học giả, doanh nhân và người hành nghề luật, đánh giá nguy cơ tiềm ẩn của việc phê chuẩn CISG, thủ tục để Việt Nam gia nhập CISG và cách áp dụng CISG một cách hiệu quả.

Vào tháng 4 năm 2011, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Luật Thương mại Quốc tế của Đại học Ngoại thương đã bắt đầu một nghiên cứu về CISG để phân tích hành vi của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Mục tiêu là để đo lường rủi ro mà một doanh nghiệp có thể gặp phải khi Việt Nam không phải là quốc gia ký kết CISC và so sánh rủi ro đó với tình huống tương tự khi Việt Nam là nước thành viên. Nghiên cứu có hai phần: 1) So sánh toàn diện và chi tiết giữa CISG và Luật Việt Nam; và 2) Một cuộc khảo sát định lượng được thực hiện trên 75 doanh nghiệp xuất nhập khẩu về thực tiễn hợp đồng, kiến ​​thức và quan điểm của họ về CISG, và 150 hợp đồng mua bán quốc tế được thu thập từ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khác nhau tại Việt Nam.[7]

Ngày 14/01/2013, trên cơ sở đề xuất của các doanh nghiệp Việt Nam và Bộ Công Thương,Thủ tướng Chính phủ đã có công văn chấp thuận “về nguyên tắc” việc Việt Nam gia nhập CISG. Bộ Công Thương được giao nhiệm vụ thực hiện các thủ tục cần thiết của việc gia nhập CISG. Năm 2013, Bộ Công Thương đã triển khai nghiên cứu riêng về lợi ích tiềm năng và những xung đột pháp lý tiềm ẩn và rủi ro của CISG. Trong nghiên cứu, Bộ đã thu thập ý kiến và của các doanh nghiệp và học giả để đánh giá kiến thức của doanh nghiệp về CISG, luật điều chỉnh hợp đồng của họ (hoặc luật điều chỉnh ưu tiên của họ), và liệu các doanh nghiệp và học giả có tin rằng Việt Nam nên tham gia CISG hay không.

Ngày 18/12/2015, Chủ tịch nước Việt Nam chính thức ký phê duyệt gia nhập CISG. Theo đó, Việt Nam trở thành nước thành viên thứ 84 của công ước này.

Ngày 01/01/2017, CISG bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam.

Một số quan ngại đối với Việt Nam khi gia nhập CISG

Theo khảo sát của Bộ Công Thương năm 2013, 35% người được phỏng vấn (làm việc trong lĩnh vực xuất nhập khẩu) thừa nhận rằng họ không hiểu hoặc không có kiến thức về CISG, 40% cho rằng họ sẽ có thể áp dụng CISG nếu được yêu cầu và chỉ 25% tuyên bố hiểu đầy đủ về công ước.[8] Thống kê này có nghĩa là các doanh nghiệp có chuyên môn hạn chế về CISG, theo đó họ sẽ ngần ngại tránh áp dụng CISG và ưu tiên luật pháp Việt Nam trong chừng mực có thể.

Mối quan ngại khác là việc các nguyên tắc của CISG vẫn còn khá mới đối với hệ thống pháp luật Việt Nam. Giáo dục pháp luật ở Việt Nam cũng không cung cấp một chương trình hoặc môn học toàn diện về CISG và chỉ có một số lượng ít các nghiên cứu pháp lý về áp dụng CISG tại Việt Nam.

Ngoài ra, những ý kiến phê bình về CISG có thể được tóm tắt như sau:

  • CISG không thể đứng độc lập như một nguồn pháp luật hợp đồng.
  • Các định nghĩa “mua bán”, “hàng hóa”, “địa điểm kinh doanh” trong CISG có thể phức tạp khiến việc áp dụng công ước trở nên khó khăn.
  • CISG không điều chỉnh các vấn đề như năng lực giao kết hợp đồng, người đại diện theo pháp luật, phạt vi phạm hợp đồng, chuyển giao quyền và nghĩa vụ, giao dịch đảm bảo, thời hiệu,..
  • Các nguyên tắc, nguồn luật được sử dụng để giải thích CISG không có giá trị rõ ràng, khiến việc áp dụngCISG không nhất quán.
  • Các quốc gia thành viên CISG đã có khá nhiều bảo lưu để không áp dụng một số điều khoản nhất định của CISG. Do đó, các bên của hợp đồng phải thực hiện thêm một bước để kiểm tra xem có những bảo lưu nào có thể ảnh hưởng đến hợp đồng. Ví dụ, Việt Nam bảo lưu rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ có hiệu lực khi lậpbằng văn bản, trái với Điều 11 của CISG.

Phần 2 của Góc nhìn thực tế về áp dụng CISG tại Việt Nam trong 4 năm qua sẽ được đăng tải vào ngày 07/06/2021


[1] uncitral.un.org/en/texts/salegoods/conventions/sale_of_goods/cisg
[2] uncitral.un.org/en/texts/salegoods/conventions/sale_of_goods/cisg/status
[3] Điều 6 CISG
[4] Franco Ferarri (ed), The CISG and its Impact on National Legal Systems (Sellier. European Law Publishers GmbH, Munich 2008) 144.
[5] Fan YANG, ‘The Application of the CISG in the Current PRC Law and CIETAC Arbitration Practice’ (PACE, December 2006)
[6] The Vietnam Civi Code 2005 and Civil Code 2015 contains regulations that are similar to CISG’s provisions.
[7] Nguyen Minh Hang, Nguyen Trung Nam, ‘Why should Vietnam Accede to the CISG – A Comparative and Quantitative Study on the Costs and Benefits of Vietnam for joining the CISG’ in The Annual MAA Peter Schlechtriem CISG Conference 2014: Boundaries and Intersections (2014).
[8] Nguyen Minh Hang, Nguyen Trung Nam, ‘Why should Vietnam Accede to the CISG – A Comparative and Quantitative Study on the Costs and Benefits of Vietnam for joining the CISG’ in The Annual MAA Peter Schlechtriem CISG Conference 2014: Boundaries and Intersections (2014).

Posted in Chưa phân loại